Việt Nam bước vào giai đoạn bứt phá hạ tầng với loạt dự án quy mô lớn, đặt ra nhu cầu vốn lớn. Khi ngân sách và tín dụng đã chạm trần, vốn tư nhân trở thành động lực quyết định cho thập kỷ 2025-2035.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với quy mô các dự án hạ tầng lớn chưa từng có như: đường sắt cao tốc Bắc – Nam, cao tốc liên vùng, sân bay Long Thành, các cụm cảng biển trọng điểm và mô hình đô thị TOD. Sự bùng nổ này đặt ra câu hỏi nguồn lực nào sẽ nuôi dưỡng cuộc bứt phá hạ tầng giai đoạn 2025 - 2035? Trong khi ngân sách nhà nước và tín dụng ngân hàng đã tiến tới giới hạn, vốn tư nhân được xác định là động lực mang tính quyết định.
Đây cũng là chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV: Hạ tầng là một trong ba đột phá chiến lược và phải triển khai theo phương châm “vừa vốn nhà nước, vừa vốn tư nhân”.
Đường sắt cao tốc Bắc - Nam là ví dụ điển hình: không chỉ rút ngắn hành trình chạy tàu Bắc - Nam xuống vài giờ mà còn mở ra tư duy mới, cho phép tư nhân tham gia sâu hơn vào các cấu phần hạ tầng nền tảng. Hàng loạt tập đoàn như VinSpeed (Vingroup), Thaco, Hòa Phát, Công ty Xây dựng Thăng Long Quốc Gia và Công ty cổ phần Vận tải Đường sắt Việt Nam đã bày tỏ mong muốn tham gia. Điều này cho thấy khu vực tư nhân đang bước sang giai đoạn mới, từ vai trò nhà thầu sang vị thế đồng kiến tạo hạ tầng quốc gia.
Trong năm 2025, nhiều chương trình đầu tư quy mô lớn được triển khai trên phạm vi cả nước. Ngày 19/4, Chính phủ công bố 80 dự án kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, với tổng vốn hơn 445.000 tỷ đồng. Đến 19/8, tại 34 tỉnh, thành, cả nước tiếp tục khởi công và khánh thành 250 dự án chào mừng 80 năm Quốc khánh, có tổng mức đầu tư 1,28 triệu tỷ đồng. Hướng tới Đại hội Đảng lần thứ XIV, đến ngày 30/11/2025, Bộ Xây dựng đã tổng hợp 232 dự án, công trình của các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty trên địa bàn 34 tỉnh/thành phố đủ điều kiện để khởi công, khánh thành (còn một số cơ quan, đơn vị chưa gửi báo cáo), dịp 19/12 tới, với tổng vốn hơn 1,1 triệu tỷ đồng, tạo nên chuỗi đầu tư hạ tầng liên tục, quy mô lớn và có sức lan tỏa trên toàn quốc.
Nhu cầu vốn lớn càng làm rõ vai trò của tư nhân. Theo ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Investment Bank, 5 năm tới Việt Nam cần khoảng 1.400 tỷ USD vốn đầu tư xã hội; sau khi trừ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mỗi năm vẫn cần 250 tỷ USD từ nguồn lực trong nước; trong đó, tư nhân giữ vai trò chủ đạo. Công ty cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating) cũng dự báo đầu tư công chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu vốn hạ tầng đến năm 2030, khiến mô hình đối tác công - tư (PPP) trở thành lựa chọn chiến lược.
Ông Phạm Quốc Long, Phó Tổng giám đốc Gemadept, Chủ tịch Hiệp hội Đại lý, Môi giới và Dịch vụ Hàng hải Việt Nam (VISABA) nhận định, Việt Nam có thể trở thành trung tâm logistics và hàng hải khu vực nếu khai thác tốt hợp lực công - tư. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh còn hạn chế: Cảng biển mới đáp ứng 20% nhu cầu khai thác; kết nối liên vùng thiếu đồng bộ. Nhiều dự án trọng điểm chưa phát huy hiệu quả do quá trình chuyển hóa chính sách còn chậm.
Những lo ngại của doanh nghiệp cũng phản ánh thực tế này. Vingroup đề xuất chỉ góp 20% vốn và cần vay vốn nhà nước dài hạn không lãi suất. Thaco kiến nghị cơ chế bảo lãnh và hỗ trợ lãi vay. Các đề xuất cho thấy quy mô dự án vượt quá năng lực một doanh nghiệp; chi phí vốn cao và rủi ro chính sách vẫn là rào cản. Dù vậy, tham gia hạ tầng vẫn đem lại lợi ích chiến lược - nâng năng lực quản trị, tiếp cận công nghệ, mở rộng chuỗi cung ứng.
Sự chậm phát triển của mô hình đối tác PPP đến nay không chỉ bắt nguồn từ tâm lý dè dặt của doanh nghiệp mà còn từ khung pháp lý chưa thật sự hoàn thiện. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) chỉ ra ba điểm yếu: chuẩn bị dự án, phân bổ rủi ro và thiếu nguồn vốn dài hạn. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại bị hạn chế cho vay dài hạn vì rủi ro kỳ hạn. Luật PPP đã tạo chuyển biến, nhưng Việt Nam vẫn cần các công cụ tài chính sâu hơn.
Trong bối cảnh đó, đề xuất thành lập Quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng của Bộ Tài chính được xem là bước đi then chốt, huy động vốn dài hạn từ người dân, doanh nghiệp, bảo hiểm, quỹ đầu tư và nhà đầu tư quốc tế. Theo VIS Rating, chỉ 23% lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong 10 tháng năm 2025 chảy vào hạ tầng, cho thấy sự cần thiết của một cơ chế dẫn vốn chuyên biệt.
Ông Dương Đức Hiếu, Giám đốc, Chuyên gia phân tích cao cấp Khối Xếp hạng và Nghiên cứu, VIS Rating cho rằng, các dự án đường sắt cao tốc và chuyển dịch năng lượng sẽ cần nguồn vốn rất lớn, trong khi vốn ODA giảm mạnh. Trái phiếu hạ tầng vì vậy có thể trở thành trụ cột mới nhờ ba lợi thế: Nền tảng kinh tế, chính trị ổn định; nguồn vốn dài hạn từ bảo hiểm, quỹ hưu trí còn chưa khai thác hết; khả năng tạo hiệu ứng lan tỏa kinh tế mạnh.
Ông Phùng Xuân Minh Chủ tịch Saigon Rating (tổ chức Xếp hạng tín nhiệm độc lập tại Việt Nam) cho rằng quỹ trái phiếu hạ tầng sẽ góp phần xây dựng cấu trúc vốn “ba trụ”: vốn công - vốn tư - vốn quốc tế, giảm phụ thuộc ngân sách. Ông Minh đề xuất quỹ nên hoạt động dưới dạng quỹ đóng tối thiểu 10 năm và niêm yết chứng chỉ quỹ để bảo đảm thanh khoản.
Để huy động vốn bền vững hơn, Việt Nam cần xây dựng “kiến trúc vốn hạ tầng” hoàn chỉnh: ngân hàng đầu tư chuyên cho vay dài hạn; thị trường trái phiếu hạ tầng; sự tham gia của các quỹ hưu trí, bảo hiểm; thị trường chứng khoán nâng hạng và hệ thống xếp hạng tín nhiệm minh bạch. Theo Phó Giám đốc Phòng Phân tích Khách hàng Tổ chức Maybank Investment Bank (Vietnam), nếu được nâng hạng tín nhiệm lên mức “đầu tư”, chi phí vốn quốc tế có thể giảm từ 1,5 - 3%, tiết kiệm hàng tỷ USD cho các dự án lớn.
Ở góc độ thị trường, ông Phạm Quốc Long Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Gemadept, Chủ tịch Hiệp hội Đại lý, Môi giới và Dịch vụ Hàng hải Việt Nam (VISABA) cho rằng, Việt Nam sở hữu lợi thế chiến lược: cửa ngõ ASEAN trên tuyến thương mại chiếm 30% vận tải biển toàn cầu, 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) bao phủ 90% GDP thế giới, top 7 cảng biển hiệu quả nhất và top 10 về năng lượng tái tạo.
Tuy nhiên, hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ chưa theo kịp, chi phí logistics còn cao và nhiều dự án chậm tiến độ. Điều này cho thấy tư nhân không chỉ là nhà đầu tư mà phải trở thành đối tác chiến lược trong toàn bộ chuỗi giá trị hạ tầng. Các mô hình như Trung tâm Hàng hải Quốc tế TP. Hồ Chí Minh hay điện gió ngoài khơi công suất 10.000 MW cho thấy dư địa tham gia của tư nhân rất lớn.
Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh (HUBA) nhấn mạnh khu vực tư nhân hiện đóng góp 51% GDP, 60% vốn đầu tư xã hội và 30% thu ngân sách. Khi khung pháp lý hoàn thiện, thị trường vốn phát triển và các công cụ như quỹ trái phiếu hạ tầng được vận hành hiệu quả, vốn tư nhân sẽ trở thành động lực chủ đạo giúp Việt Nam tiến gần hơn mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045.
TTXVN